dcsimg

Cò bợ ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Cò bợ, còn gọi là cò ma, cò cói (danh pháp hai phần: Ardeola bacchus), là một loài chimĐông Á, thuộc họ Diệc.

 src=
Bộ lông chim trưởng thành màu nâu sẽ nhạt dần khi trời sang đông

Cò bợ có chiều dài trung bình 47 cm, thường với bộ lông nền trắng, lưng màu nâu, mỏ vàng với đầu mỏ đen; chân và mắt cò màu vàng. Lông cò chuyển sang màu đỏ, xanh và trắng vào mùa sinh sản. Vào thời gian còn lại lông cò màu nâu xám pha đốm trắng.[2]

Cò bợ sống ở đầm lầy nước lợ tương đối nông cạn ở vùng ôn đớibán nhiệt đới Đông Á. Chúng thích vùng đồng bằng với bản địa trải dài từ duyên hải đến vùng núi phía tây.[2]

Cò bợ không hẳn là loài chim thiên di nhưng cũng di chuyển ít nhiều theo mùa. Có trường hợp một con cò sinh sống ở Myanma vào Tháng Tư, 1995 mà đến Tháng Tám, 1997 lại xuất hiện ở Alaska.[3]

Thức ăn chính của cò bợ là côn trùng, và các loài giáp xác. Khi làm tổ, cò bợ sẽ làm xen kẽ với các loài cò khác. Cò đẻ trứng màu xanh lam pha màu lục. Mỗi lứa từ ba đến sáu quả trứng.[2]

Là loài khá phổ biến, cò bợ không phải là loài bị đe dọa theo theo nhận định của IUCN.[4]

Hình ảnh

Chú thích

  1. ^ BirdLife International (2012). Ardeola bacchus. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  2. ^ a ă â Robson (2002)
  3. ^ Robson et al. (1998), AOU (2000)
  4. ^ BLI (2008)

Tham khảo

 src= Phương tiện liên quan tới Ardeola bacchus tại Wikimedia Commons


Hình tượng sơ khai Bài viết liên quan đến chim này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI

Cò bợ: Brief Summary ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Cò bợ, còn gọi là cò ma, cò cói (danh pháp hai phần: Ardeola bacchus), là một loài chimĐông Á, thuộc họ Diệc.

 src= Bộ lông chim trưởng thành màu nâu sẽ nhạt dần khi trời sang đông

Cò bợ có chiều dài trung bình 47 cm, thường với bộ lông nền trắng, lưng màu nâu, mỏ vàng với đầu mỏ đen; chân và mắt cò màu vàng. Lông cò chuyển sang màu đỏ, xanh và trắng vào mùa sinh sản. Vào thời gian còn lại lông cò màu nâu xám pha đốm trắng.

Cò bợ sống ở đầm lầy nước lợ tương đối nông cạn ở vùng ôn đớibán nhiệt đới Đông Á. Chúng thích vùng đồng bằng với bản địa trải dài từ duyên hải đến vùng núi phía tây.

Cò bợ không hẳn là loài chim thiên di nhưng cũng di chuyển ít nhiều theo mùa. Có trường hợp một con cò sinh sống ở Myanma vào Tháng Tư, 1995 mà đến Tháng Tám, 1997 lại xuất hiện ở Alaska.

Thức ăn chính của cò bợ là côn trùng, và các loài giáp xác. Khi làm tổ, cò bợ sẽ làm xen kẽ với các loài cò khác. Cò đẻ trứng màu xanh lam pha màu lục. Mỗi lứa từ ba đến sáu quả trứng.

Là loài khá phổ biến, cò bợ không phải là loài bị đe dọa theo theo nhận định của IUCN.

license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI